Ngân hàng doanh nghiệp vẫn khó gặp nhau

(ĐTTCO) - Hiện nay nguồn vốn ngân hàng (NH) đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).
 Tuy vậy, theo khảo sát của Hiệp hội DNNVV TP Hà Nội, vẫn có đến 59% DNNVV bị các NH từ chối hoặc chỉ được giải ngân một phần.
Trao đổi với ĐTTC về thực trạng này, TS. CẤN VĂN LỰC (ảnh), chuyên gia tài chính - NH, cho biết:
Ngân hàng doanh nghiệp vẫn khó gặp nhau ảnh 1
Kết nối trong mối quan hệ tín dụng giữa NH và DN nói chung, DNNVV nói riêng là vấn đề không mới nhưng chưa bao giờ cũ. Có một số nguyên nhân ảnh hưởng đến việc tiếp cận vốn của DN. Thứ nhất, thiếu thông tin, tổ chức cung cấp thông tin về DN và quy định minh bạch của thông tin đối với DN.
Trong khi đó, DN chưa minh bạch, chưa muốn niêm yết, chưa muốn kiểm toán nên rất khó cho NH khi tiếp cận thông tin để đánh giá tín nhiệm cho vay. Thứ hai, trình độ quản lý của các DN còn yếu kém, công nghệ lạc hậu, khả năng đáp ứng đủ điều kiện hồ sơ vay vốn NH còn hạn chế.
Thứ ba, nhiều DN thiếu chiến lược kinh doanh, phương án kinh doanh chưa khả thi; sản phẩm thiếu tính cạnh tranh, chưa tạo vị thế, thương hiệu trên thị trường…
Cuối cùng, trong bối cảnh thông tin thiếu minh bạch, cho vay theo dòng tiền rất khó, khiến các NH yêu cầu DN vay vốn cần có tài sản đảm bảo, trong khi DNNVV thường thiếu tài sản đảm bảo. 
Ngoài các nguyên nhân kể trên còn có nguyên nhân đến từ các tổ chức tín dụng (TCTD). Một số TCTD chưa thực sự mặn mà đối với khách hàng DNNVV, một phần do quy mô và hiệu quả tín dụng không cao, trong khi rủi ro và chi phí hoạt động cao. Một số TCTD chưa có các sản phẩm - dịch vụ chuyên biệt cho nhóm khách hàng DNNVV. Đặc biệt, thủ tục tín dụng còn rườm rà, phức tạp.
Một điểm hạn chế nữa trong việc tiếp cận vốn của DNNVV là môi trường kinh doanh dù có cải thiện nhưng thủ tục hành chính còn phức tạp, chi phí không chính thức còn cao. Theo báo cáo Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2017, số liệu chi phí không chính thức đối với DN, tỷ lệ DN chi trả chi phí không chính thức đã giảm từ 66% năm 2016 xuống còn 59%.
Tuy nhiên tỷ lệ DN dành hơn 10% doanh thu cho khoản chi phí không chính thức lại tăng lên 9,8% so với mức 9,1% năm 2016. Đặc biệt 58% DN cho rằng hiện tượng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục là phổ biến, con số này không thay đổi từ năm 2016.
PHÓNG VIÊN: - Vậy theo ông, đâu là giải pháp để cải thiện khả năng tiếp cận vốn tín dụng của DNNVV hiện nay?
TS. CẤN VĂN LỰC: - Theo tôi, giải pháp để DN nói chung và DNNVV nói riêng có thể tiếp cận nguồn vốn tín dụng tốt hơn, cơ bản nhất là NHNN cần đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu các TCTD yếu kém gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020. Trong đó cần quan tâm, tạo điều kiện để các TCTD có thể đẩy nhanh tiến độ tăng vốn chủ sở hữu để có đủ năng lực để cấp tín dụng theo qui định, đồng thời đáp ứng yêu cầu về an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II.
Các TCTD cũng cần thiết kế các sản phẩm-dịch vụ đặc thù, phù hợp đối với từng đối tượng khách hàng; rà soát, đẩy mạnh cho vay các gói tín dụng đã thiết kế; có biện pháp linh hoạt về tài sản đảm bảo; tăng cường cung cấp các dịch vụ (tư vấn, đào tạo, thông tin, hội thảo…) cho khách hàng; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, NH số, gồm cả việc quản lý thông tin, cơ sở dữ liệu khách hàng vay vốn; và hỗ trợ đào tạo, nâng cao kiến thức của khách hàng về tài chính - tín dụng.
Về phía DN, như tôi đã nói, cần minh bạch hoạt động và kiểm toán báo cáo tài chính; chủ động cải cách hành chính, tăng cường thiện chí hợp tác, phối hợp với TCTD trong xử lý nợ xấu, trong cung cấp thông tin và xây dựng phương án kinh doanh phù hợp.
Cũng cần nói thêm rằng, đánh giá của NH Thế giới (WB) cho thấy môi trường kinh doanh Việt Nam năm 2017 tăng 14 bậc, từ 82 lên 68. Chỉ số “Tiếp cận tín dụng” của Việt Nam nằm trong nhóm 30 nền kinh tế hàng đầu thế giới, cao hơn mức trung bình của khu vực OECD và Đông Á - Thái Bình Dương.
- Thực tế, các NH Việt Nam đang phải gánh thêm cả nguồn lực mà đáng lẽ nguồn vốn phải giải quyết trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Có lẽ đây phải là kênh huy động DN phải quan tâm nhiều hơn, thưa ông?
- Hiện nay vốn cho DN đến từ 6 nguồn chính: ngân sách nhà nước (dưới dạng bảo lãnh, bảo hiểm, ưu đãi lãi suất, quỹ hỗ trợ...); nguồn vốn nước ngoài; huy động từ thị trường vốn (chứng khoán, trái phiếu); từ đối tác (dạng mua-bán chịu, tín dụng thương mại, chiết khấu…); nguồn vốn tín dụng, bảo lãnh, chiết khấu, thuê tài chính; và cuối cùng là vốn tự có, vốn góp cổ phần hóa, bán cổ phần.
Trong các nguồn nêu trên, DN hiện nay chưa quan tâm đến nguồn vốn quan trọng là cho thuê tài chính, một dịch vụ không đòi hỏi tài sản thế chấp và nhiều tiềm năng phát triển.
Mấy năm qua Chính phủ đã quyết tâm thúc đẩy loại hình này, nhưng hiện nay quy mô vẫn còn nhỏ bé với số lượng 12 công ty cho thuê tài chính, với số dư nợ cho thuê khoảng 10.000 tỷ đồng. Như vậy quá bẻ nhỏ so với con số 500.000 DNNVV và 6,5 triệu tỷ đồng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế. 
- Còn về kênh chứng khoán thì sao, thưa ông?
- Thị trường chứng khoán (TTCK) đang có những bước phát triển mạnh, nhưng kênh này lại chưa thực sự trở thành nơi huy động vốn hiệu quả. Vốn hóa TTCK Việt Nam theo tính toán của UBCKNN đến hết năm 2017 đạt khoảng 70% GDP. Vốn huy động qua TTCK đạt 245.000 tỷ đồng (vốn nội) bằng mức tổng vốn huy động của một NH cỡ trung bình; trong đó, đầu thầu trái phiếu Chính phủ đã đạt 194.300 tỷ đồng.
Còn nếu tính cả phần vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài qua việc nhà đầu tư ngoại mua ròng cổ phiếu và trái phiếu (khoảng 2 tỷ USD năm 2017) thì có khá hơn, nhưng còn rất khiêm tốn. Do đó, phát triển TTCK, nhất là thị trường trái phiếu DN là một nhu cầu bức thiết hiện nay. 
 Kinh tế Việt Nam được dự báo tiếp tục đà tăng trưởng ổn định với mức tăng trưởng GDP trên 6,5% giai đoạn 2018-2020, sẽ tạo nhu cầu lớn về máy móc, thiết bị và phương tiện vận tải đường bộ phục vụ đầu tư phát triển. Thuê tài chính sẽ là giải pháp quan trọng giúp DN tiếp cận vốn, nhất là nguồn vốn trung - dài hạn, trong bối cảnh định hướng hạn chế sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của hệ thống NH.

Các tin khác