Duyên trà

(ĐTTCO) - Có người hỏi tôi: Duyên trà đến từ bao giờ? Câu hỏi như làn hương khơi dẫn tôi trở về với ngoại tôi, với vườn hoa năm ấy ở làng Đức Phổ.
 Khu vườn đó vốn là đất vua Đồng Khánh ban cho quan Thượng thư Phạm Xứng (ông cố ngoại tôi), cũng là cha vợ vua, khi ngài về quê hưu trí. Vì ngài không có con trai nên ông ngoại tôi được thừa hưởng mảnh đất đó làm nơi sinh sống và thờ tự. 
Ngày ấy, ngoại tôi là người làm vườn cự phách. Từ ngoài cổng vào sân là hai hàng chè tàu xanh ngay ngắn được cắt xén gọn gàng. Vào chút nữa nào là hoa thược dược, lay ơn, đồng tiền, xác pháo, hồng bạch, hồng nhung, cúc trắng, cúc vàng, vạn thọ, quỳnh... được trồng theo ô, theo lối rất đẹp mắt. Tôi không biết mình bắt đầu để ý đến mùi hương từ bao giờ, nhưng có lẽ từ cái mùi trà hoa của ngoại đã tạo thói quen cho tôi buổi sớm mai ra vườn thăm nom, trò chuyện với lũ hoa cỏ, cây cảnh. 
Tôi vẫn nhớ như in, cánh tay người nâng một bông hồng bạch, rồi khe khẽ rung nhè nhẹ, cho sương hay nước mưa đêm qua rơi xuống, để cho hoa được tươi lâu; rồi chòm râu bạc trắng phau của người nghiêng xuống bên đóa hoa, hít hà, khuôn mặt lộ lên vẻ sung sướng, hạnh phúc vô cùng. Lúc đó, tôi chưa thể hiểu được rằng có điều gì thú vị trong việc nâng niu từng cành hoa ngọn lá ấy. Điều khiến tôi ngóng chờ là khi màn thăm hoa kết thúc, ông ngoại sẽ chọn lấy một bông hoa còn đẫm sương lành cho vào ấm trà sáng. 
Duyên trà ảnh 1  
Mùi hoa hường bạch dại, hoa nhài, hoa ngâu, rồi hoa sói, hoa cúc… hư ảo quyện trong vị trà. Uống chén trà mà như nghe được lời thầm thì trò chuyện của trà, của hoa, của gió, của sương, của bao la đất trời. Những buổi trà sáng ấy, bằng cái giọng ngâm hơi khàn, người đọc cho tôi nghe những câu thơ Kiều của Nguyễn Du: “Mành tương phân phất gió đàn/ Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình/ Vì chăng duyên nợ ba sinh/ Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi". Một đứa trẻ mới mười một, mười hai tuổi làm sao hiểu cái gọi là “hương gây mùi nhớ”, “trà khan giọng tình”, “duyên nợ ba sinh”, “thói khuynh thành”.
Nhưng cái đọng lại là hình ảnh ngoại cầm một cốc trà lên, nhấp từng ngụm nhỏ, rồi đằng hắng, đọc Kiều, ánh mắt người như lạc vào miền nào đó xa thẳm lắm, khiến đứa cháu ngoại lúc đó sẵn sàng đánh đổi hết mọi đồ chơi yêu thích để được du ngoạn vào thế giới đó một lần. 
Trong các ký ức của con người, ký ức về mùi hương có lẽ bền lâu và khó quên nhất. Không biết có phải vì thế hay không, mà tôi có thói quen lưu giữ mùi hương của kỷ niệm, của thời gian. Nhiều lúc, nâng chén trà, vị đánh thức kỷ niệm, mùi hương tìm mùi hương. Vẫn biết “an trú trong hiện tại”, nhưng ký ức nhiều lúc vẫn hiện về, rực rỡ, chói sáng, ngát hương, như chưa hề có ngăn cách của tháng năm. Tôi biết rằng tháng ngày ấy đã mãi mãi trôi đi, sẽ chẳng còn hương thơm ngày cũ, ngoại cũng đã vĩnh viễn về cõi thiên thu. Âu đó cũng là lẽ vô thường của cuộc đời. 
Ngoại chưa xa tôi bao giờ, người vẫn ở đây trong mỗi chén trà tôi uống, trong mỗi nụ hoa sớm mai trong vườn, trong những điều lành thiện của cuộc đời. Vì thế, tuy rằng ít ỏi, chút gọi là thôi, nhưng mùa nào thức nấy, dệt hương làm trà hoa: mùa xuân hoa bưởi, hạ về hoa sen, thu sang tìm hoa cúc, đông tới vui với mộc, là cách để tôi không chỉ giữ mùa hương ấy cho những bằng hữu, tri âm, mà còn gói giữ mùa hương ấy cho tháng năm, để thanh tẩy và ấp ủ cho tâm hồn mình được tinh khôi, thanh sạch, thiện lương, biết rung động, biết giá trọng, trân quý những vẻ đẹp của cuộc đời. 

Các tin khác