Ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính trong bối cảnh mới

(ĐTTCO) - Triển vọng kinh tế vĩ mô thế giới năm 2022 được các tổ chức quốc tế dự báo theo xu hướng tích cực. Dù đại dịch Covid-19 vẫn tiếp diễn nhưng ảnh hưởng của nó đã giảm nhẹ, các biện pháp phòng chống dịch không còn nghiêm ngặt như trước. 
Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định các thông điệp về phát triển thị trường vốn.
Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định các thông điệp về phát triển thị trường vốn.

Tuy nhiên, sự phục hồi này vẫn mang tính âu lo khi thế giới có nhiều biến động làm thay đổi hệ thống tài chính toàn cầu, và Việt Nam cũng không ngoại lệ.

Nhìn từ bối cảnh quốc tế 
Từ đầu năm 2022, đã xuất hiện nhiều yếu tố mới mang tính căn bản đối với nền tảng phát triển kinh tế xã hội của thế giới. Thứ nhất, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt để tranh giành vị trí dẫn dắt, tăng cường lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc xung đột quân sự Nga - Ukraine đã tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh, đầu tư và tiêu dùng trên phạm vi toàn cầu.
Những tác động này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch. Các biện pháp trừng phạt liên quan đã làm gián đoạn nguồn cung ứng và tăng giá nhiều mặt hàng chiến lược, cản trở sự phục hồi của hoạt động sản xuất kinh doanh. 
Nga là quốc gia sản xuất và xuất khẩu nhiều mặt hàng chiến lược trên thị trường thế giới, như dầu mỏ (tỷ trọng năm 2020 là 12,1%), khí đốt (16,6%) và nhiều nguyên liệu đầu vào cho sản xuất lương thực lẫn thiết bị công nghệ cao. Sự gián đoạn trong các ngành sản xuất ở thượng nguồn của chuỗi giá trị toàn cầu đã gây ra khó khăn cho hoạt động sản xuất dưới hạ nguồn. 
Căng thẳng địa chính trị gia tăng làm thay đổi các giá trị kinh tế cơ bản được thiết lập sau Thế chiến II, đặc biệt là xu hướng toàn cầu hóa sâu rộng trong khoảng 30 năm trở lại đây. Tình trạng này cản trở những nỗ lực trên phạm vi toàn cầu trong xử lý những vấn đề như đại dịch Covid-19, nghèo đói, bất bình đẳng, biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường.  
Thứ hai, mặt bằng giá cả tại nhiều quốc gia tăng cao do sự phục hồi của nhu cầu tiêu dùng, trong khi tình trạng gián đoạn chuỗi cung ứng kéo dài và xung đột quân sự Nga-Ukraine, buộc các ngân hàng trung ương (NHTƯ) phải triển khai biện pháp can thiệp mạnh tay hơn, đó là thắt chặt chính sách tiền tệ để ứng phó với lạm phát đã được nhiều NHTƯ lên kế hoạch trước năm 2022.
Tuy nhiên, mặt bằng giá cả tăng cao được dự báo kéo dài và lan ra phạm vi toàn cầu, do năng lượng và thực phẩm là 2 mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong chi tiêu của người dân, các lệnh trừng phạt của phương Tây với Nga sẽ khó chấm dứt trong ngắn hạn, cùng với chính sách zero Covid kéo dài của Trung Quốc.  
Tỷ lệ lạm phát tăng cao hơn dự kiến, buộc NHTƯ nhiều quốc gia phải đẩy nhanh tiến trình thu hẹp các chương trình mua tài sản và tăng lãi suất điều hành. Do vậy xu hướng thắt chặt tiền tệ được kỳ vọng diễn ra tại hầu hết các nước phát triển, các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển ngay trong năm 2022.
Các NHTƯ sẽ phải đối mặt với lựa chọn giữa việc duy trì đà phục hồi kinh tế sau đại dịch và việc kiềm chế giá cả tăng cao. Chính sách tiền tệ thắt chặt và những lo ngại về căng thẳng địa chính trị khiến thị trường tài chính biến động mạnh, tiềm ẩn nguy cơ về khủng hoảng nợ tại một số quốc gia có tỷ lệ nợ nước ngoài cao. 
Thứ ba, so với các cuộc suy thoái kinh tế trước đây, cuộc suy thoái kinh tế do đại dịch Covid-19 và khủng hoảng năng lượng lần này có điểm khác biệt rất lớn, thể hiện ở vai trò của Trung Quốc. Nếu năm 2008, GDP tính theo ngang giá sức mua của Trung Quốc chỉ đóng góp vào 12,1% GDP toàn cầu, tới năm 2020 tỷ trọng này đã đạt 18,3%, vượt Mỹ (15,8%) và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Năm 2020, tiêu thụ năng lượng của Trung Quốc (26,1%) chiếm tỷ trọng lớn nhất toàn cầu, gần bằng mức của Mỹ (15,8%) và châu Âu (13,9%) cộng lại. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế qua từng quý của Trung Quốc giảm mạnh do đại dịch Covid-19 lan rộng và chính sách zero Covid, đã khiến các hoạt động sản xuất và hậu cần trong chuỗi giá trị toàn cầu bị ảnh hưởng nghiêm trọng. 

Những tác động tiêu cực 
Các yếu tố kể trên có mối liên hệ chặt chẽ và cùng tác động tiêu cực tới triển vọng kinh tế toàn cầu trong thời gian tới. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) vào tháng 4-2022, kinh tế toàn cầu sẽ chỉ tăng trưởng ở mức 3,6% trong năm 2022, giảm 0,8% so với mức dự báo trước đó vào tháng 10-2021.
Năm 2023, tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo ở mức 3,6% (giảm 0,2% so với dự báo trước đó). Lạm phát năm 2022 và 2023 ở các nền kinh tế phát triển được IMF dự báo ở mức 5,7% và 2,3%, thấp hơn với các nền kinh tế mới nổi là 8,7% và 6,5%.
Xung đột quân sự Nga-Ukraine, chính sách tiền tệ thắt chặt nhanh và mạnh hơn, sẽ gây ra những hệ quả có tính dài hạn như tạo áp lực tăng ngân sách quốc phòng, thay đổi cấu trúc thị trường năng lượng, nguy cơ phân mảnh trên thị trường thanh toán và thay đổi cơ cấu dự trữ ngoại hối quốc gia. Xu thế đa cực của kinh tế thế giới sẽ trở nên rõ rệt hơn trong thời gian tới giữa 2 bên có mức đối trọng đáng kể.
Một bên là các nước G7 và EU với nền kinh tế phát triển, thu nhập cao, có dân số khoảng 1,1 tỷ người, chiếm khoảng 40,6% GDP toàn cầu theo ngang giá sức mua. Bên kia là các nước có nền kinh tế mới nổi thuộc nhóm BRICS, có dân số khoảng 3,2 tỷ người, chiếm khoảng 31,3% GDP toàn cầu. 
Thứ nhất, năng lượng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19. Trước tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng và biến động giá năng lượng, các quốc gia buộc phải tìm kiếm sự đa dạng trong chuỗi cung ứng năng lượng.  
Thứ hai, nền kinh tế Nga trong dài hạn sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi chính sách cấm vận năng lượng của Mỹ và châu Âu, do cơ cấu nền kinh tế tập trung vào xuất khẩu năng lượng hóa thạch, kim loại và nông sản có giá trị gia tăng thấp. Nga sẽ dựa vào Trung Quốc để nhập khẩu hàng công nghiệp nhẹ, đáp ứng nhu cầu nội địa, và đổi lại cung cấp nguồn dầu mỏ và khí đốt cho Trung Quốc để phục vụ quá trình công nghiệp hóa. 
Thứ ba, toàn cầu hóa sẽ không chấm dứt mà thay đổi lại cách thức mà nó vận hành trong thời gian qua. Những lo ngại về bất ổn địa chính trị và quan tâm hơn tới tính tự chủ kinh tế sẽ được chuyển hóa vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế của các quốc gia và các chuỗi giá trị toàn cầu.
 
Hàm ý chính sách cho Việt Nam
Từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới năm 1986 cho tới nay, Việt Nam đã giải quyết thành công một số vấn đề lớn cơ bản: Đổi mới “tư duy” là khâu đột phá về nhận thức lấy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động, “việc gì có lợi cho dân, dù nhỏ, cũng gắng sức làm”. Từng bước hoàn thiện mô hình phát triển của đất nước: từ xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước tới nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Coi các quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường là tài sản của nhân loại, không phải đặc trưng riêng có của CNTB. Vì vậy, cần phải vận dụng sáng tạo các quy luật này trong quá trình phát triển đất nước vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
Kiên trì quan điểm trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam, kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể dần trở thành chủ đạo, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là động lực quan trọng để phát triển đất nước. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể phải giúp đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giảm sốc khi kinh tế thế giới gặp rủi ro.
Không áp dụng mô hình kinh tế thị trường phúc lợi hay kinh tế thị trường xã hội là giảm tài sản nhà nước tại doanh nghiệp (DN), tăng thuế để nâng cao đời sống của nhân dân. Kinh tế nhà nước phải đi trước mở đường trong các lĩnh vực quan trọng của từng ngành, từng địa phương một cách linh hoạt, chủ động, không cứng nhắc áp dụng một mô hình cho cả nước. 
Kiện toàn lại bộ máy của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN để tách biệt giữa quản lý nhà nước và quản trị DN. Nhiệm vụ và quy mô của Ủy ban được thay đổi theo tình hình cụ thể, không cố định khi lực lượng sản xuất và bối cảnh đã thay đổi. Ủy ban có quyền điều chuyển và huy động vốn để đầu tư theo yêu cầu của Chính phủ.
Cấu trúc lại các DNNN theo tinh thần của Nghị quyết 68/NQ-CP ngày 12-5-2022 của Chính phủ, tập trung vào việc lựa chọn các ngành nghề, xây dựng mô hình DN đủ lớn; nắm lớn, buông nhỏ để thoái vốn tại DN nhỏ, dồn vốn để xây dựng DN lớn. 
Khi lựa chọn một số ngành có tính đột phá, cần xem xét mức độ đáp ứng các tiêu chí sau: (1) Tỷ trọng của ngành kinh tế đó trong cơ cấu toàn nền kinh tế, lợi ích và rủi ro từ phát triển ngành này? (2) Nhu cầu của thị trường thế giới đối với các sản phẩm, dịch vụ của ngành kinh tế đó? (3) Ngành kinh tế đó có khả năng tạo ra lợi nhuận để huy động nguồn vốn từ các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, tạo ra nguồn lực có tính đột phá  không? (4) Ngành kinh tế đó có khả năng ứng dụng công nghệ 4.0 để nâng cao hiệu quả, tăng năng suất lao động không? (5) Ngành kinh tế đó có tác động đến môi trường như thế nào? 
Đánh giá hiệu quả các phương thức huy động vốn, bao gồm: vay vốn của ngân hàng thương mại, cơ chế đổi đất lấy hạ tầng, huy động vốn xã hội để đầu tư theo quy hoạch của cấp có thẩm quyền để từ đó có chính sách tài khóa và tiền tệ phù hợp. Đánh giá lại việc giải quyết việc làm, chế độ đãi ngộ và đào tạo tay nghề cho lao động đáp ứng yêu cầu mới của thị trường.
Xây dựng chính sách ưu tiên đặc biệt và giao quyền cho một số địa phương theo mô hình vùng (không theo địa giới hành chính cấp tỉnh) và có bộ máy Đảng- hành chính phù hợp theo Hiến pháp năm 2013.
 Chỉ có quyết liệt hành động chúng ta mới có thể hoàn thành được mục tiêu Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đặt ra: Đến năm 2030, Việt Nam là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao và tầng lớp trung lưu phát triển. Đến năm 2045, cơ bản xây dựng được mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Các tin khác