Duy Tân: Vị vua yêu nước, bất khuất và cô đơn

(ĐTTCO) -  Duy Tân (sinh ngày 19-9-1900, mất ngày 26-12-1945), tên khai sinh Nguyễn Phúc Vĩnh San, là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn, sau vua Thành Thái. Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông lại tỏ thái độ bất hợp tác với chính quyền thuộc địa Pháp. Năm 1916, lúc ở Âu châu có cuộc Đại chiến, ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân... lên kế hoạch khởi nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt, đến ngày 3-11-1916 ông bị đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Ngày 24-4-1987, thi hài ông được đưa từ đảo Réunion về Việt Nam, an táng tại Lăng Dục Đức, Huế cạnh lăng mộ vua cha Thành Thái.

(ĐTTCO) -  Duy Tân (sinh ngày 19-9-1900, mất ngày 26-12-1945), tên khai sinh Nguyễn Phúc Vĩnh San, là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn, sau vua Thành Thái. Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông lại tỏ thái độ bất hợp tác với chính quyền thuộc địa Pháp. Năm 1916, lúc ở Âu châu có cuộc Đại chiến, ông bí mật liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái Phiên, Trần Cao Vân... lên kế hoạch khởi nghĩa. Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt, đến ngày 3-11-1916 ông bị đem an trí trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Ngày 24-4-1987, thi hài ông được đưa từ đảo Réunion về Việt Nam, an táng tại Lăng Dục Đức, Huế cạnh lăng mộ vua cha Thành Thái.

Tuổi nhỏ, nghĩa khí lớn

Vua Duy Tân là con thứ 8 của vua Thành Thái và bà Hoàng phi Nguyễn Thị Định. Vua Thành Thái có nhiều con trai, đáng lẽ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng người Pháp sợ một vị vua trưởng thành khó sai khiến nên chọn một người nhỏ tuổi.

Khi Khâm sứ Fernand Ernest Lévecque cầm danh sách các hoàng tử con vua Thành Thái vào hoàng cung chọn vua, lúc điểm danh thiếu Vĩnh San. Triều đình cho người đi tìm thấy Vĩnh San đang chơi đùa, mặt mày lem luốc. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, Vĩnh San ra trình diện quan Pháp. Người Pháp trông thấy đồng ý ngay vì thấy Vĩnh San có vẻ nhút nhát và đần độn. Triều đình thấy vua quá nhỏ nên xin tăng thêm một tuổi thành 8, đặt niên hiệu cho Vĩnh San là Duy Tân.

Ngày 5-9-1907, Vĩnh San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân. Và chỉ một ngày sau lễ đăng cơ, Duy Tân đã đổi khác. Một nhà báo Pháp đã thuật lại: Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên 8.

Người Pháp cho lập một phụ chính gồm 6 đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai trị Việt Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp. Tiến sĩ sinh học Ebérhard được đưa đến để dạy học cho vua Duy Tân, theo nhiều người đó chỉ là hành động để kiểm soát thái độ nhà vua.

Khoảng năm 1912, Khâm sứ Georges Marie Joseph Mahé mở chiến dịch tìm vàng ráo riết để bổ sung kinh phí cai trị cạn rỗng. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời chúa Minh Nguyễn Phúc Chu trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào lăng Vua Tự Đức và đào xới cả trong Đại Nội để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ.

Duy Tân ra lệnh đóng cửa cung không tiếp ai. Tòa Khâm sứ Pháp làm áp lực với nhà vua, Duy Tân đe dọa sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế. Cuối cùng Toàn quyền Albert Pierre Sarraut từ Hà Nội vào giải quyết, vua Duy Tân mới cho mở Hoàng thành.

Năm vua Duy Tân 13 tuổi, ông xem lại hiệp ước Patenôtre ký năm 1884 giữa nhà Nguyễn với Pháp, cảm thấy việc thi hành hiệp ước này không đúng với những điều kiện 2 bên đã ký kết. Một hôm giữa triều đình, nhà vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài, là người giỏi tiếng Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước Patenôtre. Nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.

Năm 15 tuổi, vua Duy Tân triệu tập cả 6 đại thần trong Phụ chính, bắt các vị này ký vào biên bản để đích thân vua cầm qua trình với tòa Khâm Sứ, nhưng các đại thần sợ người Pháp giận sẽ kiếm chuyện nên không ký và xin yết kiến Thái hậu, nhờ bà can gián nhà vua. Từ đó nhà vua không chỉ có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình.

Việt Nam Quang Phục Hội được Phan Bội Châu thành lập từ năm 1912. Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên quyết định móc nối. 2 lãnh đạo của hội là Trần Cao Vân và Thái Phiên bỏ tiền vận động tài xế của vua Duy Tân xin thôi việc. Thay vào đó là Phạm Hữu Khánh, thành viên của hội, tham gia vai trò này để cận kề nhà vua.

Tháng 4-1916, khi vua Duy Tân ra bãi tắm Cửa Tùng nghỉ mát, Phạm Hữu Khánh đưa cho vua bức thư của 2 lãnh tụ trên. Duy Tân đọc thư và muốn gặp. Hôm sau, 3 người cùng đến câu cá ở Hậu Hồ, vua Duy Tân đồng ý tham gia cuộc khởi nghĩa dự định được tổ chức vào 1 giờ sáng ngày 3-5.

Tuy nhiên, thiên cơ bị lộ, cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang Phục Hội ở Quảng Ngãi là Võ An đã làm lộ tin. Chiều ngày 2-5, công sứ Pháp ở Quảng Ngãi là De Taste mật điện báo với Khâm sứ Trung Kỳ. Nghe tin, Khâm sứ Charles ra lệnh thu súng ở các trại lính người Việt cất vào kho và cấm trại không cho mọi người ra ngoài.

Đêm 2-5, Trần Cao Vân và Thái Phiên đưa thuyền đến bến Thương Bạc đón vua Duy Tân. Nhà vua cải trang thường dân đi cùng 2 người hộ vệ là Tôn Thái Đề và Nguyễn Quang Siêu. Họ tới làng Hà Trung, lên nhà một hội viên Việt Nam Quang Phục Hội để chờ giờ phát lệnh bằng súng thần công ở Huế. Nhưng chờ đến 3 giờ sáng vẫn không nghe hiệu lệnh, biết đã thất bại, Trần Cao Vân và Thái Phiên định đưa vua Duy Tân tới vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi nhưng sáng 6-5-1916, họ bị bắt.

Khâm sứ Charles và Toàn quyền thuyết phục vua Duy Tân trở lại ngai vàng nhưng ông không đồng ý; phát biểu khẳng khái: Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi tôi như là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp.

Pháp bắt Triều đình Huế phải xử, Thượng thư Bộ học Hồ Đắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án. Trần Cao Vân khi đó bị giam trong ngục, nhờ được người đưa tin cho Hồ Đắc Trung xin được lãnh hết tội và xin tha tội cho vua. Hồ Đắc Trung làm án đổ hết tội cho Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu. 4 người bị xử chém ở An Hòa. Vua Duy Tân bị đày đi đảo La Réunion ở Ấn Độ Dương cùng với vua cha Thành Thái vào năm 1916.

Một lòng vì nước vì dân

Điều tôi mong muốn là tất cả con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ thúc đẩy họ dựng lên một nước Việt Nam xứng đáng. Tôi cho rằng tôi chỉ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào tôi làm cho những người dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý thức được tình huynh đệ của họ, đất nước Việt Nam là một. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào: cộng sản, xã hội chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa phân chia.

Cựu hoàng DUY TÂN bộc bạch về hiện tình đất nước bấy giờ

Ngày 3-11-1916, gia đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở Cap Saint-Jacques. Đến ngày 20-11 họ tới bến Pointe de Galets đảo La Réunion. Tại đây, ông từ chối căn biệt thự sang trọng người Pháp dành cho. Gia đình cựu hoàng sống trong căn nhà thuê ở thành phố Saint-Denis, ăn mặc và sinh hoạt giản dị như bao người dân bình thường khác ở đảo.

Duy Tân bất bình với cha Thành Thái vì không hợp tính tình, ông cắt đứt liên lạc với gia đình; ghi tên học vô tuyến điện và mở tiệm Radio-Laboratoire bán hàng, sửa chữa máy. Đồng thời, ông thi tú tài ở Trường Trung học Leconte de Lisle và học thêm ngoại ngữ, luật học. Duy Tân ít quan hệ với người Pháp, chỉ giao du với một nhóm bạn bè. Ông tham gia hội yêu nhạc, học cưỡi ngựa và thắng nhiều cuộc đua.

Cựu hoàng Duy Tân còn viết nhiều bài và thơ đăng trong những tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry. Bài Variations sur une lyre briée (Những biến tấu của một cây đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn chương La Réunion năm 1924. Duy Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm, Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ Nhân quyền và quyền Công dân.

Trong bài Vĩnh San - Duy Tân đăng trong Revue France-Asie năm 1970, tác giả E.P Thébault, bạn thân của Duy Tân, ghi rằng: “Chỉ một lần - một lần mà thôi - trong bức thư ngày 5-6-1936 gởi Marius Moutet, Tổng trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Duy Tân gợi lại cuộc biến động 1916 và nói về vai trò của ông trong vụ ấy để xin phép qua trú ngụ bên Pháp”.

Trong nhiều bức thư khác gởi cho Chính phủ Pháp từ 1936 cho đến 1940, để xin phục vụ trong quân đội Pháp, ông không đả động đến vụ mưu loạn tại Việt Nam. Tất cả đơn đều bị bác vì Bộ Thuộc địa phê trong tờ lý lịch cá nhân của Duy Tân (được giải mật sau này) rằng: “Cựu hoàng có vẻ khó mua chuộc, rất độc lập, mưu đồ rời khỏi đảo La Réunion để tái lập ngôi báu ở An Nam”.

Ngày 18-6-1940, Charles de Gaulle kêu gọi chống Đức quốc xã. Trước việc lực lượng kháng chiến Pháp ở hải ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành lập ở Anh, trở về tái chiếm đất Pháp, đã có tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của Cựu hoàng. Ông xem De Gaulle là thần tượng, là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình.

Tuy "nước Pháp tự do" và “nước Pháp thực dân” ông chống đối đều là một nước Pháp, Duy Tân hưởng ứng và bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để chuyển cho lực lượng kháng chiến tự do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion (lúc đó theo Chính phủ Vichy) câu lưu 6 tuần. Sau đó, ông phục vụ 3 tháng với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến trong phe kháng chiến của Tướng Legentilhomme và Đại tá Alain de Boissieu.

Bị giải ngũ vì lý do sức khỏe, Duy Tân nhờ Thống đốc La Réunion là A. Capagory (1942-1947) can thiệp cho ông đăng ký vào bộ binh Pháp dưới quyền của Tướng Catroux với cấp bậc binh nhì. Một thời gian sau ông được thăng lên chuẩn úy rồi sang châu Âu.

Ngày 14-12-1945, Charles de Gaulle tiếp Cựu hoàng Duy Tân. Trong tập Hồi ký chiến tranh, Tướng de Gaulle ghi: “Tôi sẽ tiếp Cựu hoàng (Vĩnh San) và sẽ cùng ông xét xem chúng tôi sẽ làm được những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm hồn của dân tộc Việt Nam".

Trong tác phẩm Histoire du Việt Nam sử gia Philippe de Villers nhận xét: “Bảo Đại đã thoái vị và bị phê bình nghiêm khắc. Nhưng lần này, người được chú ý chính là nhân vật tiền nhiệm, Duy Tân. Bị lưu đày năm lên 16 tuổi, ông đã đầu quân vào Không lực Pháp và tham gia các cuộc chiến đấu ở Pháp và Đức. Ông đã trình bày chính kiến với Chính phủ Pháp và với một trung úy của Quân đoàn I sắp qua Đông Dương là ông Bousquet, cựu chánh văn phòng của Tổng trưởng Abel Bonnard”.

Không chấp nhận số phận bù nhìn

Ngày 24-12-1945, Duy Tân lấy phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ Bourget, Paris để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc 13 giờ 50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp.

Ngày 26-12-1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki, Cộng hòa Trung Phi. Tất cả phi hành đoàn đều thiệt mạng, gồm có một thiếu tá hoa tiêu, 2 trung úy phụ tá, 2 quân nhân trong đó có cựu hoàng Vĩnh San và 4 thường dân. Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa.

Thébault, người bạn thân của vua Duy Tân viết: “Ngày 17-12-1945  - 10 ngày trước khi tử nạn - Duy Tân có linh cảm tính mạng ông bị đe dọa. Khi cả 2 đi ngang-lần chót-vườn Tuileries, cựu hoàng nắm tay tôi nói: "Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ hy sinh. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ đề nghị tặng tôi 30 triệu quan nếu tôi bỏ ý định ấy”.

Ngày 28-3-1987, hài cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M'Baiki, Trung Phi về Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an táng tại An Lăng, Huế, cạnh nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6-4-1987. Ngày 5-12-1992, thành phố Saint-Denis đảo La Réunion khánh thành một đại lộ mang tên ông: Đại lộ Vĩnh San.

Giai thoại về vị vua này được lưu truyền trong nhiều sách vở: Một lần nhà vua thiếu niên từ bãi tắm Cửa Tùng lên, tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Duy Tân vừa rửa vừa hỏi: "Khi tay dơ thì lấy nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa?". Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua Duy Tân nói tiếp: "Nước dơ thì phải lấy máu mà rửa, hiểu không?".

Lần khác vua Duy Tân ra ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu. Thượng thư Nguyễn Hữu Bài cùng đi. Mãi không thấy con cá nào cắn câu, vị hoàng đế trẻ bèn ra câu đối: “Ngồi trên nước không ngăn được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần”. Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Thượng thư Nguyễn Hữu Bài đối lại: “Nghĩ việc đời mà ngán cho đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó”. Lần đó, Duy Tân đã phê bình Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số phận. Nhà vua còn bảo: "Theo ý trẫm, sống như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khó thì cuộc sống mới có ý nghĩa".

Khi sang đảo La Réunion, Duy Tân có đem theo Hoàng phi Mai Thị Vàng, nhưng được 2 năm bà xin về Việt Nam vì không chịu được khí hậu ở đó. Thời gian ở La Réunion, ông có chung sống với 3 người vợ ngoài giá thú, vì Hoàng phi Mai Thị Vàng từ chối ly hôn. Vì vậy, những người con của ông với các người vợ gốc châu Âu đều mang họ mẹ. Riêng Hoàng quý phi Mai Thị Vàng, kết hôn ngày 16-1-1916 khi đi lưu đày theo chồng, bà có mang 3 tháng và bị sẩy thai.

Năm 1925, cựu hoàng có gửi cho Hội đồng hoàng tộc một bức thư kèm đơn ly dị và xin Hội đồng hoàng tộc chứng nhận để bà Vàng đi lấy chồng khác, lúc này bà 27 tuổi. Nhưng bà Vàng một lòng thủ tiết cho đến cuối đời và thường ngâm:

Gìn vàng giữ ngọc cho hay

Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.

hay

Đá dù nát, "Vàng" chẳng phai

Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh.

 Về với cố hương

Bà Rita Suzy Georgete Vĩnh San (gọi tên là Suzy), trưởng nữ và ông Guy Georges Vĩnh San (gọi tên là Georges), trưởng nam của vua Duy Tân  đã nhiều dịp về Việt Nam thăm lăng mộ cha mình. Bà Suzy hồi tưởng: “Tôi sinh ra ở đảo La Réunion vào năm 1929, sau khi cha tôi kết hôn với mẹ tôi là bà Fernande Antier, vốn là con gái của một người Pháp có tiệm ăn và chuyên nấu cơm tháng trên đảo”.

Còn ông Georges thì luôn trang nghiêm, có nét khả kính của một người thuộc dòng dõi hoàng tộc. Ông Georges nhớ lại thuở ấu thời: “Cha tôi là người nghiêm khắc với con cái. Nhắc về người, trong tôi vẫn còn như lưu dấu một nỗi buồn u uẩn của một con người, một vị vua sa cơ thất thế phải sống kiếp lưu đày”.

Bà Suzy kể: “Cha tôi là người có nhiều tài, ông có thể chơi vĩ cầm, viết văn, cưỡi ngựa, đánh kiếm và làm thơ. Đặc biệt, ông là người rất ham mê máy móc kỹ thuật, nhất là kỹ thuật truyền tin. Vì vậy, chính quyền đảo La Réunion đã đặt ông thiết lập một hệ thống truyền tin đầu tiên trên đảo thời bấy giờ”.

Bà Suzy hồi tưởng: “Cha tôi đã để lại cho chúng tôi những kỷ niệm đẹp cho đến ngày ông mất đi vào cuối năm 1945”. Ông Georges kể: “Hôm đó, cha tôi trên máy bay trở về La Réunion để đón Giáng sinh và năm mới cùng gia đình. Cả nhà quây quần chờ cha về nhưng chờ mãi không thấy. Sau mới biết hung tin máy bay của cha bị nạn và cháy ở Trung Phi. Năm ấy tôi mới 12 tuổi, còn chị Suzy 16 tuổi”.

Vua Duy Tân sau khi bị đưa đến đảo La Réunion, đã mưu sinh bằng cách mở một tiệm sửa chữa máy móc cho cư dân trên đảo. Tiệm có tên là La Radio Laboratoire Vinh San. Ông Georges nhớ lại: “Cha tôi không có một ưu đãi vật chất nào trong những tháng ngày trên đảo. Nơi ở của ông không có lò sưởi, vòi nước tắm, thậm chí cả bồn rửa mặt… Nhưng ông vẫn vui vẻ sống”.

Tháng 4-1987, hài cốt của vua Duy Tân được đưa về nước, và được an táng tại khu An Lăng (TP Huế). “Lúc đưa hài cốt cha tôi về Huế, Nhà nước rất nhiệt tình giúp đỡ và nhiều vị quan chức đã đến thắp nhang trước bàn thờ cha tôi” - ông Georges  xúc động nói.

Bà Suzy và ông Georges thỉnh thoảng vài ba năm lại về Việt Nam một lần để thăm phần mộ vua cha. Đặc biệt vào dịp lễ sinh nhật 113 của vua Duy Tân đã được tổ chức rất trang trọng tại Việt Nam. Đoàn rước gần 100 người đi từ điện thờ bài vị vua qua mộ vua Duy Tân gần đó. Thái tử Bảo Vàng mang di ảnh của vua cha đi sau đoàn âm nhạc cung đình tấu các bản nhạc lúc xưa.

Phần tiếp theo là lễ ra mắt triển lãm ảnh “Cựu hoàng Duy Tân, đời sống và hành trình” với những tấm ảnh quý của đời thật cựu hoàng Duy Tân khi bị đày sang đảo Réunion (Pháp) sau khi bị chính quyền bảo hộ Pháp phế truất ngôi vua tại Huế; quá trình sinh sống, đấu tranh của cựu hoàng cho đến lúc cuối đời, khi bị tai nạn máy bay năm 1945 ở Cộng hòa Trung Phi; và lúc đưa di hài của vua về Pháp, Việt Nam.

“Tôi rất xúc động khi được gặp lại bà con thân thuộc sau thời gian dài ở Pháp, và rất cảm ơn được sự quan tâm giúp đỡ của chính quyền địa phương cho phép tổ chức lễ sinh nhật của cha tôi, và ra mắt triển lãm ảnh, nhằm cho mọi người hiểu hơn về cha tôi” - Thái tử Bảo Vàng chia sẻ.

Các tin khác