Thị trường tài chính: Tăng khả năng ứng phó các cú sốc trong và ngoài

(ĐTTCO)-Là nền kinh tế có độ mở lớn như ở Việt Nam, thị trường tài chính (TTTC) nói chung và TTCK Việt Nam đang chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi nền kinh tế và TTTC toàn cầu chưa thực sự hồi phục, cũng như những khó khăn nội tại của nền kinh tế. 
Thị trường tài chính: Tăng khả năng ứng phó các cú sốc trong và ngoài ảnh 1
4 thách thức lớn với TTCK
Thứ nhất, đà phục hồi của nền kinh tế và TTTC toàn cầu còn tiềm ẩn rủi ro, nên thách thức đà tăng trưởng bền vững của TTCK: đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp khó lường, sản xuất và phân phối vaccine chậm đến các nước đang phát triển.
Dù nguy cơ “bong bóng” TTCK toàn cầu và Việt Nam khó xảy ra, song không thể loại trừ sự sụt giảm, đảo chiều trước khi hồi phục bền vững và các rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu được kiểm soát. 
Thực tế, 7 dấu hiệu rủi ro lớn nhất đối với hệ thống tài chính toàn cầu năm 2020 dù đã được nhận diện và cảnh báo, song vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ gia tăng, bùng phát, thậm chí kéo dài 2-3 năm tới (giai đoạn 2021-2023).
Đà tăng trưởng của TTCK bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các rủi ro, như xu hướng bảo hộ thương mại, gia tăng cạnh tranh chiến lược; căng thẳng thương mại - công nghệ Mỹ - Trung Quốc; sự biến động khó đoán của giá cả hàng hóa, năng lượng và vàng; biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thiên tai, lũ lụt…
Thứ hai, 5 thách thức lớn từ nội tại nền kinh tế: (1) Chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh chưa cao, tái cơ cấu còn chậm và chưa đi vào chiều sâu. (2) Sức ép cạnh tranh, cải cách, rủi ro pháp lý… trong quá trình hội nhập. (3) Kết quả thực hiện 3 đột phá chiến lược (thể chế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng) chưa đạt kỳ vọng. (4) Vấn đề già hóa dân số ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực. (5) Việt Nam là 1 trong 6 nước bị tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu và ô nhiễm môi trường tăng.
Ngoài ra, trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, sự hưng phấn của thị trường chứng khoán (TTCK) thời gian qua tiềm ẩn một số rủi ro bởi thiếu sự kết nối giữa TTCK và nền kinh tế thực (TTCK tăng mạnh trong khi kinh tế tăng trưởng thấp, DN khó khăn, phá sản tăng).
Thứ ba, quy mô, sức cạnh tranh của TTCK Việt Nam thấp so với khu vực. Thị trường vẫn còn những hạn chế như tính minh bạch, chuyên nghiệp chưa cao; năng lực của các công ty niêm yết còn thấp, các yêu cầu quản trị công ty theo thông lệ tốt chưa đáp ứng được yêu cầu của TTCK phát triển; CTCK còn hạn chế về công nghệ, nhân lực chất lượng cao; thành phần tham gia TTCK chủ yếu là nhà đầu tư (NĐT) cá nhân, NĐT có tổ chức (các quỹ đầu tư) chưa nhiều; sản phẩm tài chính ít, chưa đa dạng; chế tài chưa đủ sức răn đe… 
Thứ tư, thách thức từ xu hướng phát triển tài chính xanh, chứng khoán xanh. Là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu, xu thế phát triển xanh trở thành tất yếu.
Tuy nhiên, tài chính xanh Việt Nam chưa thực sự trở thành xu hướng đầu tư, phát triển và vẫn đang đối diện với nhiều thách thức, như hệ thống pháp luật về tài chính xanh còn sơ khai; lượng vốn tín dụng xanh khá lớn, trong khi hiệu quả tài chính chưa cao; chưa phát triển trái phiếu DN và các công cụ nợ xanh…
Thị trường tài chính: Tăng khả năng ứng phó các cú sốc trong và ngoài ảnh 2
Một số khuyến nghị
Với triển vọng kiểm soát tốt dịch bệnh và đà khởi sắc của kinh tế, theo dự báo của Citigroup, Goldman Sachs và Nomura, năm nay TTCK Việt Nam có thể tăng 15-20%.
Còn theo Hiệp hội Tư vấn tài chính Việt Nam (VFCA) và BSC, TTCK Việt Nam năm 2021 sẽ tăng thấp hơn mức tăng ấn tượng của năm 2020, song sẽ theo hướng bền vững hơn (VN Index sẽ dao động trong khoảng 1.200-1.300 điểm) nhờ lợi thế về phục hồi, tăng trưởng kinh tế và lợi nhuận của các DN niêm yết, P/E thấp hơn khu vực và quốc tế, nợ xấu cơ bản được kiểm soát. Từ những dự báo này đặt ra một số khuyến nghị cho TTCK.
Một là, phát triển TTCK theo chiều sâu, tăng năng lực chống chịu với các cú sốc bên ngoài. Cụ thể, hoàn thiện và thực thi có hiệu quả các chiến lược và thể chế pháp luật trong lĩnh vực tài chính, nhất là tài chính số.
Xây dựng chiến lược phát triển TTTC và TTCK giai đoạn 2021-2030 hướng tới cơ cấu hợp lý, cân bằng hơn giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Phát triển sản phẩm trên nền tảng số, sản phẩm phái sinh và công cụ quản lý rủi ro tỷ giá, lãi suất; đa dạng hóa các loại hình trung gian tài chính như quỹ hưu trí tự nguyện/tư nhân, quỹ đầu tư bất động sản.
Nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu thị trường. Triển khai đồng bộ các giải pháp góp phần nâng hạng TTCK từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi của MSCI và FTSE (phấn đấu năm 2023), góp phần khơi thông dòng vốn ngoại và tăng niềm tin, sự hứng khởi cho dòng vốn nội…
Trong bối cảnh kinh tế số, tài chính số phát triển ngày càng mạnh mẽ, cơ hội đi kèm với rủi ro, thách thức, đòi hỏi TTCK Việt Nam cần có những bước tiến mạnh mẽ hơn về thể chế, công nghệ, nguồn nhân lực, mức độ chuyên nghiệp, minh bạch, khả năng chống chịu, ứng phó với các cú sốc bên ngoài.
Hai là, chú trọng nâng cao năng lực quản lý, giám sát, an toàn và ổn định hệ thống tài chính và TTCK. Theo đó, xây dựng mô hình quản lý - giám sát rủi ro hệ thống, mô hình ổn định tài chính - tiền tệ và cơ chế xử lý khủng hoảng TTCK.
Hiện đại hóa các công cụ, hình thức thanh tra, giám sát; thực thi chế tài nghiêm minh đối với các vi phạm trên TTCK. Tăng cường phối hợp quốc tế trong xây dựng các cam kết chung, khung pháp lý về chia sẻ các thông tin liên quan đến an ninh mạng và bảo mật thông tin liên quan đến hoạt động tài chính số, ngân hàng số, kinh tế số (đặc biệt là các giao dịch liên quan đến tiền kỹ thuật số, thanh toán xuyên biên giới), nhằm bảo vệ quyền lợi NĐT trong quá trình tham gia phát triển TTTC số, tài chính xanh.
Ba là, phổ cập kiến thức tài chính, nâng cao tính chuyên nghiệp NĐT, đặc biệt NĐT cá nhân. Trong đó, tập trung những giải pháp chủ yếu như cập nhật kiến thức về tài chính, CK; tăng cường vai trò đại lý đầu tư, tư vấn chuyên nghiệp, các quỹ mở, ETFs cổ phiếu và trái phiếu được vận hành bởi các quỹ đầu tư uy tín, để đảm bảo an toàn, giảm thiểu rủi ro trong quá trình đầu tư ban đầu, đầu tư của NĐT cá nhân.
Bản thân NĐT cá nhân cần trở thành NĐT thông thái bằng kiến thức, năng lực thực chất; xác định rõ mục tiêu đầu tư, khẩu vị rủi ro, đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm đòn bẩy tài chính, tránh tâm lý bầy đàn…

Các tin khác