Chốt cứng an ninh lương thực

(ĐTTCO)-Chủ trì Hội nghị tổng kết 10 năm Đề án an ninh lương thực (ANLT) quốc gia, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ quan điểm “Phải chốt cứng diện tích trồng lúa, sản lượng lương thực hàng năm và tăng cường khả năng dự trữ”. Một lần nữa, ANLT được xác định là vấn đề sống còn, đặc biệt trong bối cảnh dịch Covid-19 đang hoành hành toàn cầu.
ĐBSCL được xem là vựa lúa của cả nước. Việc chốt cứng ANLT sẽ làm mềm hóa kinh tế nông dân.
ĐBSCL được xem là vựa lúa của cả nước. Việc chốt cứng ANLT sẽ làm mềm hóa kinh tế nông dân.
Hệ đệm, giá đỡ nền kinh tế
Tổ chức Y tế thế giới WHO công bố đại dịch toàn cầu Covid-19, chính phủ các quốc gia áp dụng các biện pháp cứng rắn, từ siết chặt xuất nhập cảnh, hủy bỏ các chuyến bay, các sự kiện hội họp, đến hạn chế đi lại, thực hiện cách ly khu vực để phòng tránh dịch, đảm bảo an toàn tính mạng, sức khỏe người dân.
Dịch bệnh lây lan làm đỏ sàn chứng khoán, giá xăng dầu, bất động sản, nhiều ngoại tệ sụt giảm, sản xuất kinh doanh đình đốn. Tình trạng khan hiếm cục bộ, mua trữ hàng hóa lương thực, thực phẩm xảy ra ngay tại các cường quốc kinh tế như Mỹ, Pháp, Đức và các nước phương Tây khác, là tình trạng chưa từng có. 
Một lần nữa, cái ăn hàng ngày được đặt lên hàng đầu, ANLT vẫn là vấn đề cấp thiết, mang tính sống còn. Chúng ta sống trong kỷ nguyên 4.0, tương tác với thế giới ảo, nhưng không được "ảo" trong vấn đề ANLT.
Đây luôn luôn và mãi mãi là vấn đề hết sức hệ trọng đối với mọi quốc gia, nhất là trong điều kiện bất ổn chính trị, an ninh phi truyền thống, dịch bệnh xảy ra trên thế giới. Và trong các cuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội, môi trường, nông nghiệp, nông thôn trở thành nơi trú ẩn tìm về, một hệ đệm, giá đỡ cho nền kinh tế. 
Hạt gạo và các loại cây lương thực vẫn là nguồn nuôi sống hàng ngày của gần trăm triệu dân ta. Lúa gạo đã nuôi dân tộc ta lớn lên, từ thuở khai hoang lập ấp đến đánh giặc giữ nước và xây dựng quê hương, tạo nên nền văn minh lúa nước. Từ quốc gia thiếu đói, Việt Nam đã vươn lên trở thành cường quốc xuất khẩu gạo trên thế giới, đóng góp cho khoảng 20% lượng gạo thương mại toàn cầu và ANLT trên thế giới.
Trong khi khẳng định những thành tựu to lớn, trân trọng những kỳ tích lúa gạo, kể cả ngành hàng thủy sản, trái cây đóng góp thực phẩm, góp phần cho ANLT, cũng cần thẳng thắn thừa nhận thành tích đã qua không phải là một đảm bảo chắc chắn cho thành công tới.
Vựa lúa gạo quốc gia ĐBSCL đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Sản xuất nhiều gạo hơn không hẳn là giải pháp cho ANLT, giúp nông dân làm giàu mà cần cách tiếp cận đa ngành trước những thách thức về an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, thiên tai hạn mặn và biến đổi của thị trường. Những chuyển biến mới, đặt ra những yêu cầu mới, vẫn không làm thay đổi ý nghĩa của của ANLT, nhưng cần có cách tiếp cận mới, cách thức giải quyết vấn đề mới và chiến lược lâu dài. 

“1 trọng tâm, 3 trọng điểm”
 Khó có cuộc chuyển đổi lớn mang tính cải cách mạnh mẽ, khi vẫn còn những cản trở về chính sách đất đai, thiếu khoa học kỹ thuật cho sản xuất hàng hóa lớn, mô hình tổ chức sản xuất - kinh doanh lương thực. Không thể lắt nhắt trong chính sách trợ giúp tạm trữ, hỗ trợ vốn, vài dự án hỗ trợ khoa học kỹ thuật có tính đối phó ngắn hạn.
Xác định lúa gạo là vấn đề chiến lược, chúng ta đã có nhiều chính sách tốt. Tuy nhiên, trong khi nhiều quốc gia sản xuất lúa có những điều chỉnh quan trọng về chính sách lúa gạo, chúng ta cũng cần “hệ điều hành mới”, giữ nguyên tắc “2 đảm bảo”. Đó là ANLT và nâng cao thu nhập người trồng lúa. Yêu cầu này là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn cho ngành sản xuất đặc thù như lúa gạo và đối tượng nông dân đông đảo, nhưng không phải là nhiệm vụ bất khả thi.
Bài toán đang đặt ra đòi hỏi chúng ta phải tiếp cận tổng thể đa ngành, phối hợp liên ngành, liên vùng, cấp độ quốc gia và khu vực. ANLT không chỉ là sự đảm bảo chắc chắn đủ gạo ăn và các loại cây lương thực, còn phải đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng và sinh kế người nông dân. Các vấn đề công nghệ và thương mại hóa ngành hàng lúa gạo để chuyển từ sản xuất lương thực sang kinh doanh lương thực, gắn với nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm lương thực và tạo cơ hội làm giàu cho nông dân.
Trong khi xác định quan điểm, mục tiêu, định hướng và yêu cầu tiếp cận đa ngành, phối hợp liên ngành trong giải quyết vấn đề ANLT, cần xác định “3 trọng tâm”, “1 địa bàn vùng trọng điểm” và “gắn kết hệ thống” đảm bảo ANLT quốc gia. “3 trọng tâm” là lấy sản xuất nông nghiệp thích ứng điều kiện tự nhiên thay đổi và thị trường thay đổi để định hướng hệ thống đầu vào, tổ chức sản xuất.
Theo đó, xác định xương sống ngành là nông nghiệp thông minh, tiến lên nông nghiệp hiện đại, ứng dụng khoa học công nghệ, gồm hệ thống hạ tầng nông nghiệp chủ động thích ứng, giống, canh tác, chế biến sâu và chuyển đổi mạnh mẽ từ sản xuất nông nghiệp sang kinh doanh nông nghiệp, trọng cầu hơn trọng cung, trọng chất hơn trọng lượng, trọng giá trị hơn trọng hình thức. 
“1 địa bàn vùng trọng điểm” là ĐBSCL. Cần có chiến lược, chương trình khung cho 10 năm, kế hoạch đầu tư công về nông nghiệp và lương thực cho 5 năm và hàng năm. Có cơ chế, chính sách rõ ràng để thu hút đầu tư tư nhân, không phải là ưu tiên chung chung.
Chọn địa bàn trọng điểm ĐBSCL đầu tư công cho nông nghiệp, lương thực với chính sách khuyến khích khác biệt. Đây chính là “vốn mồi” để thu hút đầu tư tư nhân. Đối với các vùng, miền khác công bố rõ ràng ưu tiên lĩnh vực khác có lợi thế hơn không phải là nông nghiệp.
Theo đó, cần tiếp cận linh hoạt hơn đối với quy hoạch sử dụng đất trong việc thực hiện chủ trương giữ 3,5 triệu ha đất trồng lúa để ít nhất có 35-38 triệu tấn lúa, tương ứng 22 triệu tấn gạo. Cần có chính sách rõ ràng phân biệt khu vực trồng lúa trọng yếu và không trọng yếu, dựa trên sự phù hợp về sinh thái nông nghiệp, năng suất, tác động của biến đổi khí hậu.
Cần tiếp tục tăng cường chiến lược đa ngành, lồng ghép nhiều chương trình mục tiêu như xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, chống suy dinh dưỡng trẻ em... để cùng đảm đương nhiệm vụ ANLT quốc gia và chống suy dinh dưỡng, không chỉ đặt gánh nặng lên vai người trồng lúa. 

Các tin khác